Thứ Hai, ngày 29.06.2015
|
Quý thính giả thân mến, trong một xã hội mà các công
dân bị tước đoạt quyền bày tỏ ý kiến xây dựng quốc gia trong đó có
luật pháp hiện hành, thì việc họ quay lưng lại với pháp luật là
điều tất nhiên, đó cũng là cách biểu lộ sự phản đối luật rừng của
người bị trị. Để tiếp nối chương trình hôm nay, qua Chuyên mục Chuyện Chỉ
Có Ở VN, đài ĐLSN mời quý thính giả theo dõi bài viết “Sự kỳ quặc của một
đạo luật” của Việt Anh sẽ được Mỹ Linh trình bày sau đây
Ngày 20/6/2012, tại kỳ họp thứ 3 quốc hội nước CHXHCN Việt
nam khóa 13 đã thông qua luật: "phổ biến, giáo dục pháp luật". Theo
luật này, tại điều 1 nói về phạm vi điều chỉnh, theo đó quy định: "Trách
nhiệm của công dân trong việc tìm hiểu, học tập pháp luật; trách nhiệm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật". Cụ thể tại điều 2 quy định: "Công dân có
trách nhiệm chủ động tìm hiểu, học tập pháp luật"; Điều 3 : " phổ biến,
giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó nhà nước
giữ vai trò nòng cốt, nhà nước bảo đảm các nguồn lực cần thiết cho công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật". Điều 5: " Việc phổ biến, giáo dục pháp luật
phải bảo đảm kịp thời, thường xuyên, đa dạng hóa các hình thức phổ biến, phù hợp
với từng lứa tuổi, trình độ của từng đối tượng". Điều 6: Quản lý nhà nước
về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật: " Bộ Tư pháp có trách nhiệm quản
lý nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; các bộ, cơ quan ngang bộ
có trách nhiệm phối hợp với bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà nước về công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật; Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiêm quản lý
nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật ở địa phương mình". Nội
dung quản lý nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật bao gồm: "
Xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về công tác phổ biến, giáo dục
pháp luât; chỉ đạo hướng dẫn các tổ chức thực hiện công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật; bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ về công tác phổ biến giáo dục pháp luật;
kiểm tra xử lý về công tác phổ biến giáo dục pháp luật." Điều 7: " Hội
đồng phổ biến, giáo dục pháp luật được thành lập ở trung ương, các tỉnh, thành
phố trực thuộc TU cho đến cấp huyện, quận, thị xã trong cả nước". Nội dung
và mục đích việc phổ biến giáo dục pháp luật: " Tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật cho mọi công dân có ý thức biết tôn trọng và chấp hành pháp luật".
Điều 40: " luật này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2013".
Trong phiên họp quốc hội thảo luận về đạo luật này, phó chủ
tịch quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đã tuyên bố: Đây là một đạo luật rất hay mà
chỉ có ở Việt nam ta mới có, luật làm ra nhưng không có người đọc, nghiên cứu,
tìm hiểu, tức là luật vẫn chỉ là luật, luật không đi vào cuộc sống, dẫn đến việc
thực thi pháp luật bị hạn chế. Nên phải có một đạo luật để điều chỉnh, tức là
luật bắt buộc mọi công dân phải có trách nhiệm tìm hiểu, nghiên cứu và chấp
hành luật.
Câu hỏi đặt ra là tại sao nhà nước cộng sản Việt nam cho ra
lò về đạo luật kỳ quặc này? Để trả lời câu hỏi này, trước hết hãy xem xét về
hoàn cảnh ra đời của nó.Từ nhiều năm nay quốc hội Việt nam đã phải chạy theo thời
gian sản xuất hàng loạt các đạo luật. Việc xúc tiến làm luật một cách tràn lan
đã làm cho xã hội nước ta bội thực về luật, nhiều đạo luật ra đời chưa kịp tổ
chức khai triển, luật mới đã lại ra đời, làm ứ đọng trong việc tiêu hóa luật.
Giải thích vấn đề này, giới chức trách nhà nước cộng sản Việt nam phân bua rằng:
"Do hệ thống pháp luật Việt nam chưa hoàn chỉnh, vừa thiếu, vừa yếu nên việc
quản lý, điều hành đất nước gặp nhiều khó khăn, việc đồng loạt cho ra nhiều luật
là một đòi hỏi khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế của đất nước".
Cách làm luật của Việt nam theo kiểu đơn đặt hàng, chạy theo
số lượng, nên các bộ liên quan bởi luật điều chỉnh được chính phủ giao soạn thảo
đã vội vàng cho ra mắt để kịp đáp ứng sự đòi hỏi của cấp trên, vì thế nội dung
của các đạo luật thường mang tính sơ sài, xa rời thực tế cuộc sống và kết quả
của nó là nhận được thái độ dửng dưng của xã hội. Trước thực trạng đó giới cầm
quyền Hà Nội đã chạnh lòng, phật ý với nhân dân nên nảy sinh ra sáng kiến ban
hành luật bắt mọi công dân phải có trách nhiệm đọc, tìm hiểu pháp luật.
Với thể chế chính trị độc tài đảng trị nên luật pháp Việt
nam không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh xã hội mà còn bị tác động
bởi các chủ trương, chính sách, nghị quyết của đảng cộng sản.Trong mối quan hệ
giữa công dân với chính quyền nhà nước, với tư cách là kẻ cai trị, việc vận dụng
các điều luật để điều chỉnh thường mang tính chủ quan, suy diễn, áp đặt cho người
bị cai trị mà dân gian thường gọi là "luật rừng". Cách hành xử của
các nhà chức trách thực thi pháp luật của nhà nước cộng sản Việt Nam đã tạo ra
sự bất bình trong xã hội, thiếu lòng tin vào nhà nước, vào hệ thống pháp luật
hiện hành. Từ đó người dân thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, thờ ơ trong việc
tìm hiểu, nghiên cứu, học tập pháp luật hay nói cách khác, theo giới chức trách
cộng sản Việt nam gọi là "pháp luật không đi vào cuộc sống".
Phàm những thứ không phải của mình, không phải mình làm ra,
những thứ đó người ta thường không quý trọng, không mấy quan tâm. Nhà nước cộng
sản Việt nam thực tế không do người dân lập ra, người dân không có quyền lựa chọn
người đại diện cho chính mình, người dân bỏ phiếu cho những người do đảng cử,
những người này tự định ra pháp luật để bảo vệ chế độ, bảo vệ đảng nên việc người
dân không quan tâm với pháp luật là điều tất yếu, dễ hiểu.
Ở Việt nam những thứ gì mà nhà nước không quản lý nổi thì ra
lệnh cấm, những gì mà bảo dân không nghe thì ra luật bắt buộc. Pháp luật là vấn
đề thiết thực trong cuộc sống vì nó là công cụ chủ yếu để điều chỉnh hành vi
con người. Ý thức của công dân đối với pháp luật là thước đo, là hình ảnh trung
thực của lòng dân đối với chế độ. Việc ra luật để bắt buộc công dân phải học,
phải tìm hiểu pháp luật là việc làm miễn cưỡng mà giới cầm quyền cộng sản biết
rất rõ, song cực chẳng đã vẫn phải gượng gạo tạo ra nó để đối phó với vấn nạn người
dân quay lưng lại với luật pháp. Chuyện chỉ có ở Việt nam.
Việt Anh
Xem Thêm Các Tin Khác